Tiểu sử
Vua Đồng Khánh tên là Nguyễn Phúc Ưng Ðường, con trai cả của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai (1845-1876), người sinh thành 3 vị vua: Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh.Tuy là anh cả nhưng Đồng Khánh lại được đưa lên ngai vàng sau cùng. Bấy giờ, khi vua Hiệp Hòa bị giết (1883), Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường lập Hoàng tử Ưng Ðăng (con nuôi vua Tự Đức, em thứ hai của Ưng Ðường) lên làm vua, lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Ở ngôi được 8 tháng thì vua Kiến Phúc qua đời, em trai là Ưng Lịch được kế vị, đặt niên hiệu Hàm Nghi. Vua Hàm Nghi trị vì được một năm thì kinh đô thất thủ (5-7-1885), phải rời ngai vàng theo Tôn Thất Thuyết ra Sơn phòng Tân Sở, phát chiếu Cần Vương.
Triều thần và chính phủ bảo hộ lúc đó đã đưa anh trai vua Hàm Nghi vào ngai vàng đang để trống, đó là Ưng Đường, lấy niên hiệu là Ðồng Khánh.
Sinh thời, Đồng Khánh được xem là ông vua sính ngoại. Khác với những vị vua tiền nhiệm, Đồng Khánh lại cố thắt chặt tình thân hữu với người Pháp. Vì vậy vào lúc bấy giờ, sự liên kết giữa nhân dân và vua không mấy khắn khít.Vua Ðồng Khánh làm vua được 3 năm thì qua đời vào giữa tuổi 25.
Tư Lăng ngủ giấc ngàn thu…
Cái chết đến quá bất ngờ khiến nhà vua không kịp lo nghĩ đến sinh phần mai sau của mình. Lăng Ðồng Khánh hiện hữu, thực chất là nơi vua Ðồng Khánh tá túc vĩnh viễn trong điện thờ cha của ông. Sự ra đời của khu lăng tẩm này khá nhiều trắc trở.
Sau khi lên ngôi, vua Ðồng Khánh thấy lăng mộ của cha mình ở Cư Sĩ chưa có điện thờ nên ông đã dựng điện Truy Tư cạnh đó để thờ cha. Điện Truy Tư khởi công vào tháng 2 năm 1888, đến tháng 10 năm đó hoàn tất về căn bản. Ðồng Khánh rước bài vị của Kiên Thái Vương về thờ trong điện, đồng thời tiếp tục hoàn chỉnh công trình. Thế nhưng, trong khi công việc kiến trúc đang tiếp tục thì Ðồng Khánh mắc bệnh và đột ngột qua đời.
Vua Thành Thái (1889-1907) kế vị trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, kinh tế suy kiệt nên không thể xây cất lăng tẩm quy củ cho vua tiền nhiệm, đành lấy điện Truy Tư đổi làm Ngưng Hy để thờ vua Ðồng Khánh. Thi hài nhà vua cũng được an táng đơn giản trên quả đồi có tên là Hộ Thuận Sơn, cách điện Ngưng Hy 30m về phía Tây. Toàn bộ khu lăng tẩm được gọi tên là Tư Lăng.
Kiến trúc
Đến tháng 8 năm 1916, sau khi lên ngôi được 3 tháng, vua Khải Định, con trai của vua Đồng Khánh đã cho tu sửa lại điện thờ và toàn bộ khu lăng của cha mình. Việc tu sửa lại phần lăng gắn liền với những sự thay đổi của kiến trúc đương thời. Và cũng chính vì thời gian xây dựng lăng kéo dài như thế, Tư Lăng cũng mang trong mình những trường phái kiến trúc đặc biệt.
Nếu phong cách cổ truyền thực sự dừng chân trong kiến trúc Khiêm Lăng (lăng Tự Đức) và phong cách hiện đại được thể hiện rõ nét trong kiến trúc Ứng Lăng (lăng Khải Định) sau này, thì Tư Lăng (lăng Ðồng Khánh) là một bước trung chuyển, một viên gạch nền nối liền hai phong cách kiến trúc đấy.
Lăng gồm 2 trục là trục lăng và trục tẩm. Khác với các lăng tẩm của vua triều Nguyễn tiền nhiệm, trục lăng và tẩm của Tư Lăng không nhận chung một tiền án mà nằm chéo mặt với nhau. Tiền án của tẩm điện là đồi Thiên An, còn tiền án của phần lăng lại là núi Thiên Thai.
Ở phần lăng, khi qua Bái Đình sẽ đến với Bi Đình với nét kiến trúc độc đáo, khác lạ so với các lăng tẩm vua tiền nhiệm.
Qua khỏi Bi Đình chính là Bửu Thành, nơi đặt mộ của nhà vua. Vốn chính vì vậy mà nơi đây rất bình yên và tĩnh mịch.
Bên cạnh những nét cổ kính, ta còn dễ dàng bắt gặp những nét hiện đại được thể hiện tại lăng. Những công trình tại đây đa phần được sử dụng những vật liệu mới như xi-măng, gạch ca rô hay gạch hoa tráng men màu. Điều đó tạo nên một nét dung hòa kiến trúc rất độc đáo.
Cũng như bao lăng mộ triều Nguyễn khác, Tư Lăng cũng được bao bọc bởi những hàng thông reo vút, vỗ về cho giấc ngủ của nhà vua. Tư Lăng, tuy mang những vóc dáng hiện đại, nhưng ẩn trong đó là sự pha trộn, hòa hợp với thiên nhiên và con người.Tư Lăng mang một phong cách có phần lạ lẫm vì thế cuộc. Tuy nhiên chính sự mới lạ đó đã tạo nên một sắc thái hấp dẫn, đặc biệt đối với ai đến với nơi đây, một lăng tẩm có phần lăng theo khuynh hướng hiện đại và phần tẩm mang phong cách cổ điển.