Tọa lạc tại số 72 trên con đường cùng tên, Văn Thánh Huế hay Văn Miếu Huế là cách gọi tắt của Văn Thánh Miếu, một công trình đựơc xây dựng dưới triều Nguyễn ở Huế.
Khi các chúa Nguyễn mở mang khai phá phương Nam, Văn Miếu được thiết lập ở Phú Xuân, tại làng Triều Sơn và được xem như Văn Miếu riêng của Đàng Trong, nhưng không rõ thời điểm xây dựng. Đến năm Canh Dần (1770) dưới thời của Định Vương Nguyễn Phúc Thuần, Văn Miếu được dời đến xã Long Hồ.
Đến thời nhà Nguyễn, Văn Miếu được xây dựng dưới triều vua Gia Long, ngôi miếu cũ được giữ lại để làm Khải Thánh Từ, tức miếu thờ cha mẹ của Khổng Tử.
Việc xây dựng Văn Miếu được tiến hành từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 18 tháng 9 năm 1808, vua Gia Long ra lệnh làm các đồ tự khí mới để thờ, thay thế các đồ cũ và tượng thánh hiền được thay bằng bài vị.
Suốt thời Gia Long trị vì, triều đình nhà Nguyễn chỉ mở các khoa thi Hương nên không có tấm bia tiến sĩ nào được dựng ở Văn Miếu. Đến thời Minh Mạng mới mở các khoa thi Hội, nên bia tiến sĩ cũng bắt đầu được dựng.
Các “tiến sĩ đề danh bi” được lần lượt dựng lên ở sân Văn Miếu từ năm 1831 đến năm 1919, năm có khoa thi Hội cuối cùng dưới thời vua Khải Định.
Khi còn nguyên vẹn, nơi đây có gần 20 công trình lớn như: Văn Miếu (điện thờ), Đông vu, Tây vu, Thần trù, Thần khố, Hữu Văn Đường, Duỵ Lễ Đường, nhà Thổ Công, Đại Thành Môn, Văn Miếu Môn, quan Đức Môn, Linh Tinh Môn, la thành, bến vua ngự…
Đến nay qua bao thời gian, các công trình chỉ còn lại số lượng hạn chế.
Trước cổng Văn Miếu, gần bờ sông có cửa Linh Tinh Môn gồm bốn trụ xây bằng gạch, phần trên trang trí Pháp lam. Tấm biển ở giữa phía trước có đề bốn chữ lớn “Đạo Tại Lưỡng Gian” mang ý nghĩa đạo tại đất trời. Mặt sau đề bốn chữ Hán tương đương “Trác Việt Thiên Cổ” với mong muốn vượt cao ngàn thuở xưa.
Qua khỏi cửa, bước chân dẫn đến chiếc cổng bề thế của Đại Thành Môn, nơi dẫn đến phần chính của công trình.
Từ Đại Thành Môn nhìn vào phía trong, ngay chính giữa có ngôi đại điện thờ Khổng Tử gọi là Đại Thành Điện. Lịch sử ghi lại đây là kiến trúc trọng yếu của Văn Miếu, toàn bộ được dựng trên một nền cao, dài chừng 32m, rộng 25m. Cấu trúc của ngôi đại điện theo lối trùng thiềm điệp ốc truyền thống của Huế. Đến nay theo thời gian, ngôi điện chỉ còn trơ phần nền móng.
Trước sân miếu, có hai nhà bia, bên phải có tấm bia khắc bài văn bia với nội dung vua Minh Mạng dụ về việc thái giám không được liệt vào hạng quan lại. Bia ở nhà bia bên trái khắc bài văn bia mang nội dung vua Thiệu Trị dụ về việc bà con bên ngoại của vua không được tham gia chính quyền.
Ở hai bên trước điện Đại Thành, dựng hai ngôi nhà đối diện nhau là Đông Vu và Tây Vu. Trên hai dãy trường lang là 32 tấm bia đá khắc tên 293 vị Tiến sĩ từ khoa thi đầu tiên (1822) đến khoa thi cuối cùng của triều Nguyễn (1918).
“Thương thay thân phận con rùa
Vô chùa cõng hạc, ra đình đội bia.”
Sau bao nắng mưa, những tấm bia có phần mờ đục, cũng có phần nứt nẻ. Nhưng dù sao sự trường tồn của những tấm bia đó như mang một ý nghĩa đầy nhân văn.
